Thuế thuốc lá là một trong các biện pháp kiểm soát thuốc lá nằm trong gói biện pháp MPOWER được WHO đưa ra. Đây được xem là một công cụ mạnh mẽ, thậm chí là công cụ hiệu quả nhất, trong việc giảm tỷ lệ người hút thuốc trên thế giới (Levy và cộng sự, 2004).

Ở Việt Nam, thuốc lá là một mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng, vì vậy các sản phẩm thuốc lá kể từ năm 1990 đã phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (trước năm 1990, các xí nghiệp thuốc lá chịu thuế doanh thu ở mức 5%). Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 quy định mức thuế tiêu thụ đặc biệt tính trên giá xuất xưởng đối với các loại sản phẩm thuốc lá như sau: thuốc lá lá, thuốc lá sợi 20%; thuốc lá điếu có đầu lọc 50%; thuốc lá điếu không có đầu lọc và xì gà 40%. Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998 quy định mức thuế tiêu thụ đặc biệt tính trên giá xuất xưởng đối với các loại sản phẩm thuốc lá như sau: thuốc lá điếu có đầu lọc sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu nhập khẩu, xì gà: 65%; thuốc lá điếu có đầu lọc sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu trong nước: 45%; thuốc lá điếu không có đầu lọc: 25%. Lần đầu tiên các mức thuế khác nhau này được điều chỉnh về chung một mức là theo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi năm 2005. Từ ngày 1/1/2006, mức thuế đối với thuốc lá điếu là 55% và xì gà là 65%; phải đến ngày 1/1/2008 hai mức thuế này mới được gộp về một mức thuế chung là 65% tính trên giá xuất xưởng cho các mặt hàng thuốc lá. Mức thuế đối với các sản phẩm này được nâng lên 65% từ ngày 1/4/2009 theo quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008; lên 70% từ ngày 1/1/2016 đến hết ngày 31/12/2018, và lên 75% từ ngày 1/1/2019, theo quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi năm 2014.

Trong số các công ty sản xuất thuốc lá ở Việt Nam, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba) là doanh nghiệp nắm giữ vị trí số một với xấp xỉ 67% thị phần trong nước và 75% thị phần xuất khẩu (2022). Được thành lập năm 1985, tiền thân là một xí nghiệp liên hiệp có bốn nhà máy sản xuất thuốc lá điếu và một số xí nghiệp sản xuất nguyên liệu thuốc lá, đến nay Vinataba đã trở thành một Tổng công ty lớn thuộc sự quản lý của Bộ Công Thương. Vinataba là công ty mẹ của 17 công ty con như Công ty TNHH MTV Thuốc lá Sài Gòn và Công ty TNHH MTV Thuốc lá Thăng Long (sở hữu 100% vốn điều lệ), và công ty liên doanh với các tập đoàn thuốc lá nước ngoài như British American Tobacco (BAT), Philip Morris International (PMI) và Japan Tobacco International (JTI). Bên cạnh sản phẩm xì gà phục vụ khách hàng với mức thu nhập cao, các sản phẩm thuốc lá điếu sản xuất bởi Vinataba được trải rộng ở ba phân khúc: phổ thông, trung cấp và cao cấp, nhằm chiếm lĩnh phần lớn thị trường với đủ đối tượng khách hàng. Là doanh nghiệp lớn nhất trong ngành công nghiệp thuốc lá, Vinataba cũng dẫn dầu về mức đóng góp ngân sách nhà nước và liên tục tăng kể từ năm 2014.

Hình 1. Đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng năm của Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam, 2011-2022 (đơn vị: tỷ đồng)

Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ Bộ Công Thương và Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam

Từ quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt qua các năm, dễ nhận thấy cấu trúc thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá ở Việt Nam chỉ bao gồm thuế tỷ lệ. Loại thuế này có ưu điểm là ít chịu ảnh hưởng của lạm phát, giá trị thực của thuế được duy trì. Tuy nhiên, đối với các sản phẩm giá rẻ, tăng tỷ lệ thuế cũng không làm tiền thuế tuyệt đối tăng lên đáng kể (nhất là khi mức thuế tỷ lệ lại được tính trên giá xuất xưởng), khiến cho các sản phẩm thuốc lá giá rẻ càng trở nên sẵn có hơn (Wu và cộng sự, 2020). Thuế tỷ lệ có ảnh hưởng lớn hơn tới các sản phẩm thuốc lá cao cấp và do đó khiến các sản phẩm giá rẻ nay càng trở nên rẻ hơn một cách tương đối, vì vậy khi phản ứng với việc tăng thuế, người tiêu dùng có thể chuyển sang tiêu thụ sản phẩm của các thương hiệu rẻ hơn. Điều này thực chất làm giảm hiệu quả tăng thuế, tăng khả năng tiếp cận và hút thuốc lá đối với người thu nhập thấp, thanh thiếu niên và trẻ em, gián tiếp làm tăng tỷ lệ hút thuốc lá thụ động. Bên cạnh đó, việc đánh thuế tỷ lệ tính trên giá xuất xưởng thay vì giá bán lẻ tạo lỗ hổng cho các công ty thuốc lá chuyển giá từ khâu sản xuất sang khâu phân phối, hạ mức giá xuất xưởng nhằm giảm mức thuế phải nộp, làm thất thoát nguồn thu thuế của Nhà nước. Trong khi đó, thuế tuyệt đối đưtợc coi là một công cụ hữu hiệu hơn trong việc giảm nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm giá rẻ, hơn nữa cách tính thuế cũng đơn giản hơn so với thuế tỷ lệ; song, thuế tuyệt đối khi được áp dụng cũng cần thay đổi thường xuyên để tránh ảnh hưởng của lạm phát. Hiện nay ở nhiều quốc gia, phương thức đánh thuế theo mức tuyệt đối và đặc biệt là phương thức đánh thuế hỗn hợp (gồm cả thuế tỷ lệ và thuế tuyệt đối) hiện đang được sử dụng phổ biến do kết hợp được điểm mạnh của cả hai loại thuế này.

Mức thuế áp lên các sản phẩm thuốc lá ở Việt Nam hiện nay tương đối thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá ở Việt Nam được tính trên giá xuất xưởng thay vì giá bán lẻ, do đó gánh nặng thuế thuốc lá (phần trăm tổng thuế trên giá bán lẻ) chỉ là 36% (2019), chỉ cao hơn so với Lào và Campuchia trong số các nước ASEAN (Liên minh Phòng chống thuốc lá Đông Nam Á, 2021), thấp hơn mức trung bình của thế giới là 56%, và thấp hơn nhiều so với mức 70% mà WHO khuyến nghị. Mức thuế thấp khiến cho giá cả của thuốc lá nói chung ngày càng trở nên phải chăng hơn do thu nhập của người dân đang tăng lên nhanh hơn so với tốc độ tăng thuế, nhờ sự tăng trưởng kinh tế năng động của đất nước trong những năm gần đây.

Mức thuế tiêu thụ đặc biệt thấp, bên cạnh việc thực thi quy định cấm hút thuốc lá ở nơi công cộng còn yếu kém, các quy định về quảng cáo và khuyến mại nhanh chóng trở nên lỗi thời trước các chiến thuật mới của ngành công nghiệp thuốc lá, và hệ thống kiểm soát buôn lậu chưa hiệu quả, có thể là nguyên nhân dẫn đến việc Việt Nam không đạt được mục tiêu quốc gia giảm tỷ lệ hút thuốc lá ở nam giới xuống còn 39% vào năm 2020. Vì vậy, Bộ Tài chính đang đề xuất bổ sung một mức thuế tuyệt đối vào mức thuế tỷ lệ hiện hành. Một vấn đề lớn đối với đề xuất này là mức tăng thuế bao nhiêu là phù hợp. Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều quốc gia, thuốc lá là một hàng hoá có độ co giãn không cao, vì vậy để thay đổi được hành vi của người tiêu dùng, khuyến khích họ cắt giảm lượng tiêu thụ thuốc lá thì cần tăng thuế lên một mức đáng kể. Việc tăng thuế cần phải bao trùm được cả các nhãn hiệu thuốc lá thấp cấp để người tiêu dùng không tiếp tục duy trì được việc hút thuốc nhờ sử dụng các sản phẩm rẻ hơn; đây là điểm mà thuế tuyệt đối phát huy lợi thế so với thuế tỷ lệ. Hơn nữa, mức tăng thuế không được thấp hơn lạm phát để tránh tình trạng hiệu quả của việc áp thuế giảm đi chỉ trong một vài năm.

Hiện tại, dư địa cho việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá ở Việt Nam còn khá lớn khi xét thấy gánh nặng thuế thuốc lá chỉ là 36%. Bộ Y tế đã đưa ra một số phương án đề xuất tăng thuế tiêu thụ đặc biệt thuốc lá trong giai đoạn 2023-205, bao gồm cả phương án tăng thuế tỷ lệ và phương án tăng thuế tuyệt đối. Phương án tăng thuế tỷ lệ từ mức 75% giá xuất xưởng hiện tại lên 80% vào năm 2023 và 85% vào năm 2025 ước tính chỉ làm tỷ lệ hút thuốc giảm 0,3% so với năm 2020. Trong khi đó, các phương án bổ sung thuế tuyệt đối 2.000 đồng/bao, 5.000 đồng/bao và 10.000 đồng/bao vào mức thuế tỷ lệ hiện hành được dự báo có thể làm tỷ lệ hút thuốc giảm lần lượt là 1,1%, 2,2% và 3,5% so với năm 2020. Tuy nhiên, ngay cả với phương án tăng thuế mạnh nhất là bổ sung thuế tuyệt đối 10.000 đồng/bao, tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ mỗi bao thuốc cũng chỉ đạt 60,5%. Vì thế, để tỷ lệ này đạt đến con số 70% theo khuyến nghị của WHO cũng như duy trì tính hiệu quả của thuế, Việt Nam vẫn cần một lộ trình tăng thuế dài với các mức tăng đáng kể và thường xuyên.

Tài liệu tham khảo:

Liên minh Phòng chống thuốc lá Đông Nam Á. (2021). mplementation of WHO Framework Convention on Tobacco Control, Article 6 in ASEAN Countries. https://seatca.org/dmdocuments/SEATCA%20TOBACCO%20TAX%20INDEX%20ART6%202021%20%2820MAY21%29%20WEB.pdf?fbclid=IwAR2wGybCZrQHn-nFHpH5xNfvyQ3XL6d_uYwgWsPT-nr0OZvQqCMlf74zBV4

Levy, D. T., Chaloupka, F., & Gitchell, J. (2004). The Effects of Tobacco Control Policies on Smoking Rates: A Tobacco Control Scorecard. Journal of Public Health Management and Practice, 10(4), 338–353. https://doi.org/10.1097/00124784-200407000-00011

Wu, D. C., Jha, P., Dutta, S., & Marquez, P. V. (2020). Impact of cigarette price increase on health and financing outcomes in Vietnam. Gates Open Research. https://doi.org/10.12688/gatesopenres.13051.2